Nội dung nổi bật:
-
15 tuổi, ông Nguyễn Văn Tuấn học được nghề làm bia hơi. 16 tuổi, vay
400.000 đồng từ tín dụng xã, hợp tác cùng xí nghiệp Đường Rượu Duy Xuyên
(tỉnh Quảng Nam) trong vai trò cung ứng nguyên liệu, phụ trách kỹ
thuật. Bia sản xuất ra phủ khắp thị trường Đà Nẵng, Quảng Nam.
-
Sau khi tốt nghiệp lớp 12 (năm 1988), ông rời Quảng Nam vào Sài Gòn,
vừa làm, vừa học đại học rồi khởi sự lại với lần lượt từ nghề làm bia
hơi, dệt nhuộm rồi đến may mặc.
- Sau những cú trắng tay và làm lại từ đầu, năm 1997 - 2011, ông bắt đầu lấn sang lĩnh vực xuất bản sách, bầu sô.
-
Ông cũng từng tháp tùng đoàn xiếc Việt Nam đi diễn tại Trung Quốc. Từ
chuyến đi này, ông có cơ hội tiếp cận với dịch vụ truyền hình trả tiền
tại Trung Quốc. Về Việt Nam, ông thành lập ARICO, đưa dịch vụ truyền
hình trả tiền đến với thị trường Việt Nam.
- Đang
hoạt động tốt trong lĩnh vực truyền hình trả tiền, với doanh thu gần
200 tỷ đồng năm 2013, và lĩnh vực khách sạn (khách sạn Sông Thu, Đà
Nẵng), ông lại hứng thú với đầu tư nghiên cứu công nghệ xử lý rác thải
rồi sữa organic...
Là
con thứ trong gia đình có ba anh em, sớm thừa hưởng máu kinh doanh từ
mẹ, nên từ năm 16 tuổi, ông Nguyễn Văn Tuấn đã biết kiếm tiền bằng cách
hợp tác cùng một đơn vị nhà nước để sản xuất bia hơi.
Sau
những cú trắng tay và làm lại từ đầu, năm 1997 - 2011, ông bắt đầu lấn
sang lĩnh vực xuất bản sách, bầu sô. Ông cũng từng tháp tùng đoàn xiếc
Việt Nam đi diễn tại Trung Quốc. Từ chuyến đi này, ông có cơ hội tiếp
cận với dịch vụ truyền hình trả tiền tại Trung Quốc.
Nhận
thấy đây là lĩnh vực có tiềm năng, ông trở về Đà Nẵng, cùng người bạn
thân thành lập ARICO, đưa dịch vụ truyền hình trả tiền đến với thị
trường Việt Nam với tổng vốn đầu tư hạ tầng tại hai thị trường Đà Nẵng
và TP.HCM lên đến gần 500 tỷ đồng.
Dường
như, mỗi lần vấp ngã trắng tay, người đàn ông này lại đứng dậy và vững
chãi hơn. Ông nói: "Sự quăng quật của cuộc đời chỉ là những thử thách
được lặp lại, tất cả chỉ cần biết mình đang làm gì là ổn".
Nhìn
lại 26 năm trên thương trường, từ tay trắng đến cơ nghiệp ngày hôm nay,
ông Tuấn chỉ nói: "Mình như người đi khai hoang...".
Thương vụ tuổi 16
-
Mới 16 tuổi mà dám hợp tác với một đơn vị nhà nước sản xuất kinh doanh
bia hơi. Có vẻ đây là một sự khởi đầu quá sớm nhưng cũng quá táo bạo đối
với một thiếu niên?
-
Năm 15 tuổi, tôi được người anh họ dạy cho nghề làm bia hơi. Lúc đó,
tôi đã bắt đầu tập tành khởi sự kinh doanh với vài ba nhân viên. Ban
đầu, bia làm ra bán rất đắt nhưng chỉ cung cấp cho các quán nhỏ. Do cần
tư cách pháp nhân để mở rộng thị trường nên một năm sau, tôi ký hợp đồng
hợp tác cùng xí nghiệp Đường Rượu Duy Xuyên (tỉnh Quảng Nam) trong vai
trò cung ứng nguyên liệu, phụ trách kỹ thuật, xí nghiệp đầu tư máy móc
chế biến và tiêu thụ sản phẩm.
Với
số vốn là 400.000 đồng vay từ tín dụng xã, xí nghiệp giao cho tôi 12
nhân viên, tự quản lý và lo lương bổng cho họ. Sáng tôi vào phân chia
nguyên liệu, pha chế, chuyển giao cho nhân viên sản xuất, rồi về đi học.
Chiều học về, tôi vào kiểm tra, chuyển giao hàng cho bộ phận bán hàng
của xí nghiệp.
-
Cơ duyên là vậy nhưng chúng tôi vẫn tò mò về thương vụ này, sao người
ta có thể ký hợp đồng với một người còn chưa trưởng thành?
-
Thời điểm đó, tôi làm chủ yếu là vì đam mê kiếm tiền. Gia đình tôi
không ai biết, ba tôi mất sớm, mẹ tôi đi buôn Hà Nội suốt, anh trai đi
bộ đội, nhà chỉ còn tôi và đứa em út. Để có vốn làm ăn tôi đã dùng pháp
nhân và giả chữ ký của mẹ để được địa phương xác nhận cho vay 400.000
đồng.
Ba tháng sau, khi giấy báo nộp lãi gửi về nhà, mẹ tôi mới biết việc vay tiền cũng như việc đầu tư sản xuất bia của tôi.
Thế
là một hai bà bắt phải trả tiền cho hợp tác xã tín dụng, vì sợ tôi
không lo học hành và dính vào cảnh "tiền mất tật mang". Tôi cố gắng
thuyết phục mẹ cho tôi thêm thời gian vì việc làm ăn đang rất thuận lợi.
Bia
chúng tôi sản xuất ra phủ khắp thị trường Đà Nẵng, Quảng Nam. Chỉ vài
tháng sau tôi đã có đủ tiền trả cả gốc lẫn lãi vay. Giờ nghĩ lại tôi
thấy việc hợp tác của tôi cứ như một cơ duyên.
Mấy
năm trước, tôi tình cờ gặp lại anh giám đốc xí nghiệp ngày xưa, giờ
đang là Phó chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Đà Nẵng, tôi hỏi: "Lúc đó,
em chưa đủ tuổi ký hợp đồng kinh tế, sao anh dám hợp tác với em?". Anh
ấy trả lời rằng: "Chính tôi cũng chẳng hiểu tại sao mình dám làm vậy".
- Làm bia hơi siêu lợi nhuận như vậy tại sao ông không tiếp tục mà chuyển sang dịch vụ truyền hình trả tiền khi vào TP.HCM?
-
Trước khi vào Sài Gòn, tôi đã mở thêm xưởng sản xuất bia tại Duy Xuyên
nhưng sau đó giao lại cho anh trai. Tôi vào TP.HCM học với hai bàn tay
trắng. Khởi nghiệp lại với nghề làm bia hơi và tích cóp được chút vốn
liếng. Thị trường lúc đó chỉ có bia Sài Gòn, rượu nhẹ có gas, chứ chưa
có bia hơi.
Tôi
gần như là người đầu tiên làm bia hơi lúc bấy giờ. Đang trên đà phát
đạt, tôi nhận lời hợp tác với một đối tác ở Hóc Môn, ngoài việc hợp tác
với tôi, đối tác này còn làm rất nhiều lĩnh vực khác. Yên tâm với tiềm
lực tài chính của họ, tôi dồn hết vốn liếng vào làm bia hơi. Nhưng chỉ
sau 6 tháng, đối tác bị đi tù, tài sản bị niêm phong hết. Dù không dính
dáng gì nhưng tôi cũng không lấy lại được tiền. Hết vốn.
Chưa
biết phải làm lại từ đầu như thế nào thì người anh họ dạy cho tôi làm
hồ (vải dệt, nhuộm xong phải qua lớp hồ để vải được cứng và bóng). Sau
đó, tôi xin vào xí nghiệp tại Tân Bình làm công nhân.
- Từ vị trí "ông chủ” rủng rỉnh tiền bạc bỗng chốc chuyển sang làm công nhân, ông thấy mình có bị sốc?
-
Với tôi làm chủ hay làm thuê không quan trọng, chỉ cần biết mình đang
làm điều mình cho là đúng và có kế hoạch thực hiện nó một cách tốt nhất.
Có lẽ được thừa hưởng từ máu kinh doanh của mẹ nên hầu như với lĩnh vực
nào tôi cũng thấy cơ hội kiếm tiền trong đó.
Khi
chuyển sang làm hồ, tôi được giao đứng máy. Suốt mấy tháng làm công
nhân, tôi đã tìm ra được một hóa chất giúp vải cứng và bóng lên rất
nhiều, nhưng lại tiết giảm được lượng lớn hồ phải bỏ ra. Vì hiệu quả như
vậy, nên dần dà đơn đặt hàng đổ về nhờ tôi cán hồ. Thu nhập hằng tháng
từ việc làm này đã đem đến cho tôi doanh thu bằng cả một xí nghiệp với
mấy trăm con người.
Lúc
đó, tôi nhiều tiền lắm, nhiều như chưa bao giờ mình được nhiều đến thế.
Mạnh vốn, nên tôi chuyển sang làm may mặc xuất khẩu, một lĩnh vực được
xem là cực thịnh trong giai đoạn năm 1989 - 1991. Tôi đóng hàng xuất đi
các nước Đông Âu như: Ba Lan, Tiệp Khắc, Nga...
Giàu
sang chưa hưởng được bao lâu, khối Đông Âu gặp biến cố, hàng hóa xuất
khẩu của tôi bị giữ lại tại cảng từ mùa này sang mùa khác, năm nay đến
năm sau. Tôi mất tất cả. Choáng váng khi cơ nghiệp tiêu tan, tôi gần như
không tự chủ được mình.
Mất nhiều, được cũng nhiều
- Cuộc sống đưa đẩy thế nào mà ông lại trở thành bầu sô, nghe kể là có thời gian ông còn kiếm tiền bằng "rác"?
-
Thiết nghĩ còn người là còn của, nên tôi buộc mình không được gục ngã.
Không vốn, nên tôi chọn cách kiếm tiền từ những thứ người ta vứt đi. Một
mặt, tôi tìm đến những nơi may gia công xin vải vụn. Không biết tôi làm
gì nhưng tự nhiên có người tới lấy "rác" giùm nên họ cho không mà không
cần hỏi lý do.
Mặt
khác, tôi tìm đến những trường dạy may, đề nghị được cung cấp vải cho
trường dạy học, đổi lại trường phải may theo kiểu tôi đặt hàng. Phía
trường học đồng ý ngay vì vải tôi cung cấp rất đa dạng, hình vuông, hình
tròn, chữ nhật, hình thoi... đều có đủ.
Công
việc của tôi lúc này là mướn người lựa vải vụn, vải màu, hình nào xếp
theo hình đó, rồi chuyển cho trường học may áo gối, khăn trải bàn, thảm
chùi chân. Vải đen và trắng tôi bán cho những chỗ làm ghế, nệm.
Nhờ
vậy mà tôi mới gầy dựng lại được vốn. Sau đó, tôi lấn sân sang làm
sách, làm bầu sô ca nhạc dẫn các đoàn biễu diễn đi từ Nam ra Bắc, từ Bắc
vào Nam. Thời điểm này, nhiều đối tác làm ăn của tôi không biết tôi
đang làm gì.
- Ông đã tiếp cận với dịch vụ truyền hình trả tiền ở Trung Quốc như thế nào?
-
Cách đây 14 năm, trong một chuyến tháp tùng đoàn xiếc Việt Nam sang
Trung Quốc biểu diễn, điều thắc mắc đầu tiên của tôi là sao ở đây không
có cảnh ăng ten mọc chi chít? Khi vào khách sạn tôi càng bất ngờ hơn, ti
vi ở đây đang chiếu đến mấy chục kênh, chất lượng rất tốt.
Tôi
hỏi tiếp tân khách sạn mới biết thế nào là "truyền hình cáp". Thấy cũng
hấp dẫn, tôi liên hệ với đơn vị cung cấp dịch vụ truyền hình để được
tham quan máy móc, hạ tầng của họ. Nhận thấy đây là lĩnh vực có tiềm
năng, tôi trở về Đà Nẵng cùng người bạn thân bàn phương án kinh doanh.
Sau khi đàm phán được với Đài Phát thanh Truyền hình Đà Nẵng liên kết
phát triển hệ thống truyền hình cáp, chúng tôi đã đặt vấn đề mua thiết
bị từ phía Trung Quốc.
- Đầu tư vào hạ tầng truyền hình cáp đòi hỏi số vốn khổng lồ, làm sao ông xoay xở được?
-
Đây là một bài toán khó vì chúng tôi phải tự túc vốn, phía nhà đài chỉ
liên kết với chúng tôi về mặt nội dung. Để có được số tiền gần 200 tỷ
đồng tiền mặt đầu tư hạ tầng, với chúng tôi là không thể. Chúng tôi một
mặt đàm phán với nhà cung cấp hạ tầng để được thanh toán theo tiến độ
hằng năm, mặt khác, khuyến mãi cho khách hàng, chỉ cần đóng phí thuê bao
trả trước 1 năm, không cần đóng phí hòa mạng.
Thời
điểm 2001, phí thuê bao là 22.000 đồng/tháng, phí hòa mạng là 1 triệu
đồng (tương đương 2,5 chỉ vàng). Bằng cách này, khách hàng cũng được
lợi, mà chúng tôi cũng hoàn tất được việc đầu tư mà không bỏ vốn.
- Xem ra trong "thương vụ” đầu tư này, các ông quá thuận lợi?
-
Nghe thì thấy vậy nhưng tình hình hoàn toàn ngược lại. Chúng tôi đã gặp
khó khăn ngay từ cấp quản lý khi đưa giải pháp khuyến mãi 100% phí hòa
mạng. Khuyến mãi này vượt quá luật quy định và có nguy cơ bị đình chỉ.
Lần đó, ở phút 89, tôi đã vượt qua được "cửa tử" khi đưa ra được dẫn
chứng chứng minh sự khuyến mãi chỉ mới đạt ngưỡng 0,01%, nên không hề
phạm luật.
Chưa
hết, đối với lĩnh vực truyền hình trả tiền, tôi cứ như người đi khai
hoang, không biết khai thuế thế nào, hạch toán ra sao. Các cơ quan quản
lý cũng ra chính sách quản lý từng bước theo diễn biến của thực tế...
- Khi ARICO đưa dịch vụ truyền hình trả tiền ra thị trường, phản ứng của khách như thế nào?
-
Thời gian đầu, khi đưa 12 kênh ra thị trường, chúng tôi rất khó khăn,
vì lâu nay người xem truyền hình được miễn phí, tự nhiên bây giờ bị đụng
chạm đến tài chính. Thứ hai, con cái họ bị ảnh hưởng việc học, vì nhiều
kênh nên chỉ lo xem truyền hình.
Ngoài
ra, còn có những xung đột về nội dung, thời gian chiếu đối với một số
kênh mua bản quyền của nước ngoài... Nhưng đến nay khán giả xem đài cũng
đã thích ứng được với sự thay đổi cũng như những thông tin mà chúng tôi
phát.
-
Được biết đến như người đầu tiên đưa dịch vụ truyền hình trả tiền vào
Việt Nam nhưng tại sao ARICO chỉ phát triển tại Đà Nẵng và TP.HCM.
-
Trước đây chúng tôi đã đầu tư, khảo sát, thiết lập dự án ở một số tỉnh
khu vực miền Trung. ARICO lên dự án, tỉnh sẽ tiếp nhận và chỉ đạo đơn vị
hợp tác. Thế nhưng, khi dự án chúng tôi gửi lên, phía tỉnh "thay tên,
đổi họ”, rồi bỏ chúng tôi ra, chỉ đạo đơn vị xin giấy phép làm. Tốn thời
gian, công sức và tài chính nên chúng tôi quyết định không mở rộng đầu
tư ra các tỉnh nữa.
-
Đang hoạt động tốt trong lĩnh vực truyền hình trả tiền, với doanh thu
gần 200 tỷ đồng năm 2013, khách sạn (khách sạn Sông Thu, Đà Nẵng), tại
sao ông lại hứng thú với đầu tư nghiên cứu công nghệ xử lý rác thải rồi
sữa organic, tất cả đều không liên quan gì đến nhau?
-
Phương thức kinh doanh của tôi là trứng phải bỏ nhiều giỏ, bể giỏ này
mình còn giỏ khác. Bởi làm kinh tế luôn có quy luật, quan trọng nhất vẫn
là tầm nhìn của mỗi người. Với những nước đang phát triển thì luôn có
nhiều hệ lụy về môi trường. Cũng chính những hệ lụy đó nên buộc doanh
nghiệp phải nghĩ đến việc xử lý về môi trường, đặc biệt là công nghệ xử
lý rác. Sữa organic cũng là một xu hướng thực phẩm xanh mà các doanh
nghiệp Việt Nam đang hướng tới.
-
Khó khăn hiện nay đã đẩy nhiều doanh nghiệp vào cảnh phá sản. Cũng từng
phá sản nhiều lần, nhìn lại 26 năm trên thương trường, ông nhận thấy
cần phải rút ra những bài học cốt lõi nào?
-
Khủng hoảng kinh tế là cơ hội cho các doanh nghiệp chân chính tái cấu
trúc nợ và cải thiện kinh doanh. Đây cũng là lúc các doanh nghiệp nhìn
lại mình cũng như có những hướng đi cơ bản vững chắc hơn, từ bỏ cách làm
ăn chạy theo một trào lưu nhất thời nào đó. Điều này được minh chứng
rất rõ qua cuộc khủng hoảng vừa qua, nhiều doanh nghiệp có tên tuổi đã
rơi vào vòng xoáy nợ nần, phá sản.
Tất
cả đều xuất phát từ nền tảng, kế hoạch không vững, chạy theo lợi nhuận
ngắn hạn mà từ bỏ mục tiêu dài hạn. Sau rất nhiều biến cố, tôi ngẫm rằng
kiếm thật nhiều tiền không phải là mục tiêu quan trọng nhất, mà là cố
gắng làm những việc tốt hơn mỗi ngày. Cách tốt nhất của người làm kinh
doanh sau khủng hoảng là thừa nhận sai lầm và khắc phục chúng.
- Để thành công như hôm nay, "hậu phương" của ông có đồng hành?
-
Rút kinh nghiệm từ những người đi trước, cũng như bạn bè mình, vợ chồng
tôi đã thỏa thuận, việc kinh doanh để mình tôi lo, vợ tôi ở nhà lo nuôi
dạy con cái. Chúng tôi không muốn thấy cảnh hai vợ chồng cặm cụi kiếm
tiền, rồi cuối cùng con cái hư hỏng trên đống tiền mà cha mẹ chúng làm
ra.
- Xin cảm ơn ông về cuộc trò chuyện này!
Theo Doanh nhân Sài Gòn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét